Việt Nam thiếu gì để trở thành điểm đến golf hàng đầu khu vực?

Dù 8 năm liền được vinh danh “Điểm đến golf tốt nhất châu Á”, Việt Nam vẫn thiếu một chiến lược quốc gia và bộ tiêu chuẩn thống nhất. Chuyên gia đề xuất chuẩn hóa nhân lực, liên kết golf – resort 5★ – MICE – hàng không và xây thương hiệu chung “Golf in Vietnam”.

Theo số liệu của Liên đoàn Golf châu Á - Thái Bình Dương, năm 2024, thế giới có hơn 108 triệu golfer. Thị trường du lịch golf toàn cầu ước đạt 25,3 tỷ USD trong năm 2024, và dự báo tăng lên 41,9 tỷ USD vào năm 2030, theo ước tính từ Grand View Research. Khách du lịch golf chi tiêu trung bình 2.200 USD mỗi chuyến đi, cao hơn hẳn khách đại trà.

Ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, quy mô thị trường du lịch golf ước đạt 4,97 tỷ USD năm 2024 và được dự báo tăng gần 10% mỗi năm giai đoạn 2025–2030. Năm ngoái, Thái Lan vượt mốc 35 triệu khách quốc tế, tạo nền cho tăng trưởng golf. Nhật Bản riêng mảng golf tourism đạt 617,1 triệu USD năm 2024. Còn Malaysia đang nổi lên nhờ dòng khách Trung Quốc phục hồi mạnh cùng các chương trình famtrip golf chuyên biệt cho thị trường này.

Việt Nam được vinh danh 8 năm liên tiếp là “điểm đến golf tốt nhất châu Á” và hai lần “điểm đến golf tốt nhất thế giới”. Tuy nhiên, theo chuyên gia, tỷ lệ khách quốc tế chơi golf tại Việt Nam vẫn ở mức khiêm tốn, thấp hơn nhiều so với các quốc gia như Thái Lan, nơi có tới 8-9% khách quốc tế gắn golf trong chuyến đi.

Sân golf tại Lăng Cô, Huế

Giới chuyên gia nhận định, điểm yếu đầu tiên của Việt Nam là hệ thống tiêu chí chất lượng dịch vụ đồng bộ. Mỗi sân vẫn vận hành theo chuẩn riêng. Bên cạnh đó, không có bộ chỉ số quốc gia, Việt Nam khó tạo dựng niềm tin với thị trường quốc tế.

Tiếp theo, yếu tố cạnh tranh cục bộ giữa các sân golf làm giảm sức mạnh tổng thể. Các sân quảng bá riêng lẻ, thiếu hợp tác để hình thành thương hiệu chung. Trong khi đó, Thái Lan đã tạo dựng “Golf Thailand” như một sản phẩm thương hiệu quốc gia, kết nối các sân, khách sạn và hàng không thành một chuỗi liền mạch.

“Nếu muốn cạnh tranh với Thái Lan hay Malaysia, Việt Nam cần một bộ tiêu chuẩn rõ ràng để bất kỳ golfer nào khi đến cũng cảm thấy trải nghiệm được đảm bảo”, ông Spencer Robinson, Giám đốc Truyền thông Liên đoàn Golf châu Á – Thái Bình Dương (APGC), nhận định.

Ngoài hạ tầng, một thách thức lớn là nguồn nhân lực cho ngành golf. Đội ngũ quản lý sân, huấn luyện viên hay caddie tại Việt Nam chủ yếu được đào tạo theo kinh nghiệm thực tiễn, chưa có hệ thống chuẩn hóa theo quốc tế. Trong khi nhiều quốc gia trong khu vực đã xây dựng chương trình đào tạo liên kết với AGIF hoặc R&A, Việt Nam thiếu một “trường lớp” chính quy. 

Thêm vào đó, sức hút của điểm đến phụ thuộc vào khả năng gắn kết với các ngành khác. Tại Thái Lan, phần lớn khách quốc tế chọn môn thể thao như một phần trong hành trình nghỉ dưỡng hoặc MICE. Các gói “golf - resort 5 sao - hội nghị” tạo giá trị gia tăng. 

Ở Việt Nam, nhiều sân đã nằm trong các quần thể phức hợp như Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết. Tuy nhiên, chuyên gia cho rằng sự kết nối vẫn còn rời rạc khi thể thao tách biệt với du lịch văn hóa, MICE chưa được gắn chặt với sân golf. 

“Ở các quốc gia thành công, golfer quốc tế luôn yên tâm vì dịch vụ đồng nhất từ sân này sang sân khác, từ chất lượng cỏ, clubhouse đến đội ngũ caddie. Điều này không thể đạt được nếu chỉ một vài sân riêng lẻ làm tốt, mà phải là sự thống nhất toàn ngành. Đây là nền tảng để Việt Nam xây dựng niềm tin và định vị vững chắc trên bản đồ golf quốc tế”, ông Spencer Robinson nói thêm.

Đồng quan điểm, bà Nguyễn Hoàng Tú Anh (Dandelly Nguyễn), thành viên Ban điều hành AGIF và Tổng giám đốc 54 Vietnam, nhấn mạnh Việt Nam không thể dừng lại ở việc mở thêm nhiều sân. Thay vào đó cần chiến lược dài hạn và thương hiệu quốc gia rõ ràng. 

Dẫn ví dụ, Thái Lan đã triển khai Thai Golf Passport như một sản phẩm du lịch chiến lược. Nhật Bản có Golf in Japan, một cổng thông tin hoàn chỉnh cho VĐV quốc tế. Golf Saudi được phát triển như một hệ sinh thái nằm trong Vision 2030. Còn England Golf với chiến lược 2025-2030 đặt trọng tâm vào sự an toàn, tính toàn diện và phát triển bền vững. 

Theo bà, Việt Nam cũng cần một “Golf in Vietnam’”, từ đó chuẩn hóa dịch vụ, nâng cao năng lực nhân lực, kết nối golf với nghỉ dưỡng, MICE và hàng không, đồng thời quảng bá đồng bộ ra thị trường quốc tế. “Nếu đi đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có thể biến golf từ một sản phẩm du lịch cao cấp trở thành một ngành công nghiệp giá trị cao, đóng góp trực tiếp cho vị thế điểm đến golf hàng đầu thế giới", bà Dandelly Nguyễn nói. 

Để tìm giải pháp phát triển, ngày 31/10, Hội nghị chủ đầu tư sân golf Việt Nam 2025 sẽ tổ chức tại Laguna Lăng Cô Golf Resort, Huế.


Sự kiện được chỉ đạo của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và UBND thành phố Huế; Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam, Cục Thể dục Thể thao, Sở Văn hoá và Thể thao và Sở Du lịch Huế phối hợp tổ chức; Hiệp hội Golf Việt Nam (VGA) đồng hành triển khai cùng Tập đoàn 54 – đơn vị tư vấn quốc tế về phát triển và vận hành golf. Sự kiện này sẽ tập trung vào việc thiết lập hệ thống tiêu chí quốc gia, thúc đẩy chuẩn hoá chất lượng dịch vụtừ hạ tầng đến nhân lực, tăng cường liên kết đa ngành và từng bước xây dựng thương hiệu chung cho ngành.

 

Theo Phan Nguyen/VTV Times

https://vtv.vn/viet-nam-thieu-gi-de-tro-thanh-diem-den-golf-hang-dau-khu-vuc.html